Xem ngay bí quyết quan hệ lâu ra tới 60 phút rất đơn giản TẠI ĐÂY❤️

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà


Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Dàn ý Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài mẫu 1

1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà và vẻ đẹp của con sông Đà ở thượng nguồn.

2. Thân bài

a. Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp

Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng

Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…

Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát

Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Dàn ý Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

Dẫn dắt vấn đề.

2. Thân bài

Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông…”.

Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.

Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô… mượn cạp ngoài bờ vực”.

Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: âm thanh thác đá “con xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu… cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

+ Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

→ Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người.

3. Kết bài

Khái quát lại vấn đề.

Văn mẫu Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Mỗi nhà văn có một quan điểm sáng tác riêng theo họ xuyên suốt sự nghiệp văn học. Nhưng có lẽ, Nguyễn Tuân là một trường hợp đặc biệt khi quan điểm sáng tác và phong cách văn chương của ông có sự khác biệt rõ rệt ở thời kì trước và sau năm 1945. Nếu trước năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Chữ người tử tù cùng những hoài niệm về cái đẹp của quá khứ thì sau năm 1945, người ta biết đến Nguyễn Tuân với Người lái đò sông Đà cùng một năng lượng, tình yêu tha thiết dành cho cuộc sống, cho thiên nhiên mà bạn đọc dễ dàng cảm nhận được. Nổi bật trong bài tùy bút chính là hình tượng con sông Đà lúc ở thượng nguồn.

Tùy bút Người lái đò sông Đà in trong tập “Sông Đà”, là kết quả chuyến đi thực tế của Nguyễn Tuân đến vùng núi Tây Bắc để khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người và tìm kiếm “chất vàng mười đã qua thử lửa” trong chính cuộc sống thường nhật. Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vĩ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới qua hình ảnh người lái đò sông Đà.

Mở đầu tùy bút là hai lời đề từ vô cùng đặc sắc và độc đáo: “Đẹp vậy sao tiếng hát trên dòng sông”: ca ngợi vẻ đẹp của sông Đà và tiếng hát của những con người cần mẫn lao động, làm việc ở nơi đây. “Chúng thủy giai đông tẩu/ Đà giang độc Bắc lưu” mang ý nghĩa mọi con sông đều chảy về phía Đông, riêng sông Đà chảy về phương Bắc để nói lên sự khác biệt độc nhất vô nhị của sông Đà, gợi ra những cá tính riêng của con sông. Chỉ với hai lời đề từ ngắn gọn, Nguyễn Tuân đã mang đến cho bạn đọc những vẻ đẹp vô cùng khác biệt của sông Đà với những con sông khác giúp bạn đọc phần nào thêm thích thú và muốn tìm hiểu về con sông này.

Sau lời đề từ, tác giả đi vào cụ thể vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của con sông: “Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành; có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu; đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách; có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia; mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân mang đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng thú vị về con sông Đà: nghệ thuật ẩn dụ những khối đá bờ sông được ví như những thành trì kiên cố, vũng chãi và đầy rẫy sự nguy hiểm, bí ẩn, đe doạ chực chờ. Tác giả đã sử dụng nhiêu giác quan để cảm nhận được hết vẻ đẹp hung tợn ở quãng này của con sông: nó vừa hẹp lại nhiều đá dựng cao ngang ngược nhưng tiềm ẩn những sự nguy hiểm khiến con người không thể lường trước được.

Không chỉ quãng này của con sông nguy hiểm mà quãng mặt ghềnh Hát Loóng cũng nhiều hiểm nguy không kém: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà…; quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”. Đến đây, Nguyễn Tuân sử dụng nhiều câu văn ngắn móc xích với nhau, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau để “hoành hành” tạo thêm nét hung bạo của sông Đà; không chỉ có đá dựng thành vách hăm dọa con người nữa mà ngay cả mặt nước cũng tạo sóng hung tợn để đe dọa bất cứ con thuyền hay người nào qua đấy cho ta thấy một con sông Đà ngang ngược, bá đạo và vô cùng bướng bỉnh.

Quãng Tà Mường Vát con sông cũng hung tợn không kém: “Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu; nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc… những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào; nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống” Nghệ thuật nhân hoá kết hợp so sánh của Nguyễn Tuân làm tạo cho câu văn trở nên sinh động, hấp dẫn hơn bao giờ hết. Khúc sông này nguy hiểm đến mức không một con thuyền nào dám tiến lại gần, nếu không sẽ bị hút vào trong, bị dìm xuống lòng sông và biến mất một cách đáng sợ.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà

Không chỉ riêng những quãng trên con sông Đà mới hung tợn mà dòng chảy của nó cũng vô cùng hung tợn: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Sự hung dữ này được Nguyễn Tuân liên tưởng đến một anh quay phim bạo dạn dám ngồi vào trong cái thuyền thúng tròn vành rồi cả người cả thúng cùng theo dòng xoáy xuống dưới cùng của xoáy nước và lia máy ảnh lên, thu vào tầm mắt tất cả xoáy nước như “một cái giếng mà thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp cả vào máy vào người quay phim cả người đang xem.” Sự liên tưởng đặc sắc, thú vị này không chỉ giúp bạn đọc hình dung ra sự hung tàn của con sông mà còn làm cho vẻ hung tàn đó trở nên đa sắc màu hơn.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài mẫu 2

Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng lần ấy đến thăm Tây Bắc, ông ưng con sông Đà lắm! Hình như ông tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống ông: vừa bàng bạc, cao cường bí ẩn nhưng cũng vừa rất nhuần nhụy trữ tình. Thế là hành trình khám phá sông Đà chẳng khác gì hành trình khám phá những bí ẩn của bản thân. Ông nói thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ lắm nhưng cũng thơ mộng lắm! Tất cả dồn tụ lại hợp nên hình ảnh sông Đà. Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm 1960, còn gì thú vị hơn khi được đến với sông Đà. Con sông vừa nguyên sơ lại đầy tính cách (Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu).

Nguyễn Tuân gặp sông Đà như hai người tri kỉ gặp nhau. Và như trên đã nói, viết về sông Đà có một cái gì đó khiến ta liên tưởng Nguyễn Tuân đang viết về chính mình. Phải chăng vì thế mà con sông hiện lên trong những trang tùy bút của nhà văn Nguyễn cá tính vô cùng? Hung bạo là hung bạo nhất, còn thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bến bờ.

Xem thêm: Phân tích nét tính cách hung bạo của con sông Đà

Sông Đà là cái tên thượng nguồn của con sông (đoạn chảy đến Việt Nam). Đó là con sông tiền sử nhất, nguyên sơ nhất ở miền Bắc nước ta. Đoạn thượng nguồn con sông dữ dội và hung bạo lắm! Không chạy dọc cả con sông, Nguyễn Tuân chỉ dành hết bút lực mà miêu tả sông Đà ở thượng nguồn. Nơi ấy sông Đà hiện lên sục sôi, nghiệt ngã và đầy thử thách.

Dữ dội của sông Đà không phải chỉ có thác đá mà nó còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiềm trở. Ở khía cạnh này, con sông như một bờ hoang thời tiền sử. Chỗ ấy hai bên bờ sông hẹp lại ngồi trong khoang đò qua quãng ấy… chỉ lúc đúng Ngọ mới có mặt trời. Có chỗ, ‘con nai con hổ đã từng có lần vọt qua bờ bên kia. Hay đại loại ta cứ tưởng tượng như đang đi giữa một con phố hẹp ngóng vọng lên khung cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện. Con sông trở nên hoang vắng cổ xưa và có cái gi đó bí hiểm vô cùng.

Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm. Âm thanh của tiếng nước đổ nghe như tiếng người. Cũng oán trách, cũng kêu van rồi lại khiêu khích giọng gằn mà chế nhạo. Nguyễn Tuân tả sóng mà nghe như tác giả đang tả người vậy. Hay dòng sông kia chính là nỗi niềm của dân tộc, là lời của cha ông vọng về từ phía quá khứ, vọng về từ không biết bao nhiêu trận kịch chiến đã có trên sông?

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà

Cả đoạn văn hầu như chỉ thấy Nguyễn Tuân sử dụng thủ pháp đối lập của văn học lãng mạn để khơi gợi cho người đọc hết những hình dung về sự dữ dội của dòng sông. Lúc ấy dòng sông không khác gì dòng lửa, bức bối, khó chịu, bứt rứt vô cùng. Tiếng gầm thét của thác nước ngoài kia đang rống lên ầm ĩ như những ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữ rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa. Rồi những xoáy nước giống như những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có khi lại như hàng ngàn con đom đóm đang châm lửa vào đầu ngọn sóng. Dòng sông dữ dội phi thường thật nhưng nghe sao nó như đang gợi lên cái bất an của con người. Dòng sông cuộn mình dữ dội như cuộc sống, như lịch sử nước Việt ta chẳng mấy lúc bình yên. Sau cách mạng, cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Tuân thường gắn liền với cài nhìn con người, cái nhìn lịch sử và dân tộc. Tùy bút này là một cái nhìn như thế.

Nói cái dữ dội, nghiệt ngã của dòng thác sông Đà, ta không thể quên những bãi đá. Mà nói chính xác hơn, đó phải được coi là những thạch trận. Mỗi hòn có một tâm thế riêng, một nhiệm vụ, một tính cách như chính con người vậy. Đá cũng chia thành ba hàng mà chặn ở trên sông. Có hòn làm nhiệm vụ như mồi nhử các thuyền. Hòn khác lại là một boong ke. Rồi hòn làm nhiệm vụ tấn công bệ vệ oai phong lẫm liệt. Tất cả tạo thành một thế trận không chỉ để đe dọa nhà đò mà khiến cả chúng ta, mỗi khi đọc đến đây hẳn không ít thì nhiều đều nghĩ nó như một chiến trường cổ xưa thực sự. Vậy phải chăng những hòn đá với nhiều tâm thế kia chính là những người lính biên cương luôn nhấp nhổm lo lắng chẳng bao giờ yên được? Dòng sông càng miêu tả, càng giống thế giới con người. Càng giống như tiếng nói của cha ông đang vọng về từ quá khứ bốn ngàn năm đấu tranh dựng và giữ nước. Phải chăng đó chính là cái tạo nên phần hồn cho dòng thác sông Đà? Tạo cho con sông không chỉ là một thực thể của thiên nhiên mà lúc này nó giống như một chứng nhân lịch sử vậy.

Sông Đà dữ dội khiến nhà đò ngay cả những ai non tay lái, yếu thần kinh chỉ cần nghe thấy đã phát hoảng lên rồi. Ấy vậy mà đoạn sông nước hiền hòa, nó lại đẹp như một cố nhân.

Ngồi trên máy bay mà nhìn xuống con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói Mèo đốt nương xuân. Đúng là một khung cảnh hết sức mơ mộng, diệu huyền. Rồi sông Đà không giống như sông Gâm, hay sông Lô lúc nào cũng chỉ xanh xanh màu canh hến. Sông Đà đẹp bởi màu xanh ngọc bích vào mùa xuân. Sang thu nước sông lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về. Với tác giả có lúc con sông còn giống như một cố nhân. Trong một lần lạc đường, tác giả vô tình nhìn ngắm nó mà nhớ lại một tứ thơ Đường của Lý Bạch xưa. Đến đây dòng sông Đà khiến người ta quên hẳn đi cái dữ dội nghiệt ngã của mình. Dòng sông gần gũi như con người và xinh đẹp trẻ trung như thiếu nữ.

Còn nữa, nhìn cảnh bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông mà vui như nắng giòn tan sau một kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Có chỗ, đoạn sông lặng như tờ gợi một miền cổ tích xa xưa hay có lúc ngồi đò, ta bắt gặp hình ảnh một con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò… Đúng là nhìn cảnh ấy chẳng ai dám nghĩ dòng sông ở quãng trên lúc nào cũng sẵn sàng ăn chết bất cứ một cái thuyền nào sơ hở. Cảnh về đoạn sông này trữ tình thơ mộng và huyền diệu xiết bao.

Hình như Tùy bút Sông Đà đọc nhiều mà vẫn còn hấp dẫn lắm! Ai mới đọc e còn cảm thấy ngại ngùng nhưng đọc rồi lại thấy cuốn hút. Đọc để cảm nhận thế giới của dòng sông nhưng lần nào tôi cũng thấy nó vọng ra bao điều mới mẻ của thế giới con người. Tôi băn khoăn tự hỏi, phải chăng đó là điều tạo nên tính hấp dẫn đa chiều của hình ảnh dòng sông? Có thể nói khẳng định rằng, Người lái đò Sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu quê hương đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà ở thượng nguồn trong tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân – Bài mẫu 3

Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng Giang” của Huy Cận; hay một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kì vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát, kiếm tìm.

Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất trong tập tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, tập tuỳ bút cũng đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Tuân so với giai đoạn trước cách mạng. Trong Người lái đò sông Đà không chỉ nổi bật hình ảnh của người lao động kiên cường dũng cảm mà còn nổi bật một thiên nhiên đẹp đẽ

Sông Đà được nhà văn xây dựng thành một “nhân vật” có mặt suốt từ đầu đến cuối thiên tùy bút, tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm này. Dưới ngòi bút tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân, Sông Đà không còn là một con sông vô tri, vô giác, mà là một “nhân vật” có cá tính, có tâm trạng, có hoạt động: thật phong phú và phức tạp. Tác giả đã nhận xét khái quát: đây chính là con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình. Hai đặc điểm hung bạo và trữ tình này được nhà văn triển khai trong suốt cả bài tùy bút.

Cái hung bạo của con Sông Đà không chỉ ở những con thác, mà còn ở quang cảnh hùng vĩ với vẻ huyền bí, hoang sơ của dòng sông chảy giữa điệp trùng rừng núi Tây Bắc. Như một nhà quay phim là lão luyện, vừa cho người xem thấy bao quát khung cảnh Sông Đà, thỉnh thoảng tác giả lại dừng lại, cho khán giả những pha “cận cảnh” thật tiêu biểu về sự hung dữ của sông này.

Phân tích tính hung bạo của con Sông Đà

Đấy là những cảnh thật hiếm thấy như cảnh đá bờ sông dựng vách thành chỉ khi nào đến giữa trưa, mặt trời rọi đúng đỉnh đầu, chỗ ấy mới có nắng. Cách so sánh trên tạo được ấn tượng khá đậm nét về vách đá dựng đứng với độ cao hun hút khôn cùng. Có chỗ vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Vì thế, dòng chảy của con sông bị thu lại rất hẹp: hẹp đến mức đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách, hẹp đến mức quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ấn tượng về độ và thẳng của vách đá bờ sông và dòng chảy nhỏ hẹp càng được tô đậm thêm qua một chi tiết tiêu biểu và lôi liên tưởng bất ngờ – thiên nhiên hoang sơ: với đời sống hiện đại của con người: Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào từ cái tầng nhà thứ mấy nào vừa phụt đèn điện. Nhà văn chẳng những sử dụng thị giác mà còn kết hợp sử dụng cả giác quan khác với những so sánh thật mới mẻ, táo bạo. Vách thành dựng đứng gợi lên sự hiểm trờ, hùng vĩ, lòng sông hẹp lại gián tiếp gợi được sức chảy ghê gớm, dữ dằn của thác lũ.

Tính chất hung bạo còn thể hiện qua cái dữ dằn của ghềnh sông với hợp sức của gió, của sóng và của đá. Dường như chúng phôi hợp với nhau một cách chặt chẽ để tăng thêm sức mạnh uy hiếp, đe dọa con người: quãng một ghềnh Hát Loong, dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, em cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Dà nào tóm được qua đấy. Ở đây, một phần câu văn như bị chặt đứt ra thành nhiều khúc ngắn, gọn, diễn đạt bằng điệp từ, điệp cấu trúc và tăng tiến, tạo nhịp điệu khẩn trương, dồn dập, gấp gáp như sự chuyển động của gió to và sóng lớn.

Hung bạo hơn nữa là những cái hút nước khủng khiếp: trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống xông để chuẩn bị làm móng cầu. Vì nước bị hút quá mạnh nên phát ra những âm thanh được nhân cách hóa như nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc do nước bên trong và ngoài cống chênh nhau quá nhiều, phát ra tiếng kêu ặc ặc ghê sợ. Để tô đậm thêm sự nguy hiểm của cái hút nước, nhà văn đã phối hợp giữa “tả” và “kể”. Ở đây, yếu tố tự sự góp phần quan trọng kích thích trí tưởng của người đọc. Nếu câu văn nêu trên thiên về tả thì hai câu dưới thiên về kể: Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý… ở khuỳnh sông dưới.

Sông Đà còn hung bạo ở những thác nước. Nhiều thác nước như bày sẵn thế trận, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt người lái đò, lái mảng, đặc biệt đối với những ai xuôi dòng, ở những nơi này, Sông Đà được mô tả như có cả một bầy thủy quái vừa hung hăng, bạo ngược, vừa nham hiểm, xảo quyệt. Lúc thì thác nước khiêu khích, chế nhạo, khi thì hò la, gầm thét, như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu tre nứa nổ lứa, đang phá luống rừng lứa, rừng lứa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Thác nước càng được nhân thêm sức mạnh, sức công phá, tăng thêm mối nguy hiểm đối với nhà đò vì sự góp mặt của hàng ngàn tảng đá to, nhỏ. Mỗi hòn đá được khắc họa như một quái vật từ ngàn năm vẫn kiên trì mai phục nơi đây để bày thạch trận trong lòng sông. Mỗi lần thấy một con thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là chúng lập tức nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Tác giả để dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác, khiến người đọc hình dung chúng cũng táo tợn, hung bạo như một lũ giặc điên cuồng.

Dưới ngòi bút của người nghệ sĩ ngôn từ, vẻ đẹp man dại, sức mạnh huyền bí của Sông Đà đã hiện ra ở nhiều góc độ khác nhau. Đây chính là tiềm năng to lớn của Đà giang được con người chinh phục. Đây là “vàng trắng” quý báu của đất nước chúng ta. Chính vì vậy, Nguyễn Tuân nói tới hình ảnh của những tuốc bin thủy điện. Điều đó cũng có nghĩa là nhà văn nghĩ tới vai trò, vị trí của Sông Đà trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước.

Nguồn: vndoc